Phân biệt tội giết người và tội cố ý gây thương tích làm chết người

1. Phân biệt giữa tội giết người và tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người:

Để phân biệt hai tội này, cần xem xét các dấu hiệu sau:

Lỗi của người thực hiện hành vi:

Lỗi là thái độ tâm lý bên trong của người phạm đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra.

– Trong trường hợp phạm tội giết người, người thực hiện hành vi có lỗi cố ý đối với hậu quả chết người. Nghĩa là họ nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc hậu quả đó xảy ra. Sự hình thành ý thức của người có hành vi giết người  có thể được biểu hiện theo một trong ba dạng sau:

+) Trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm đến tính mạng người khác, người phạm tội  thấy trước được hậu quả chết người tất yếu xảy ra và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra. Biểu hiện ý thức này ra bên ngoài thường được biểu hiện bằng những hành vi như: chuẩn bị hung khí (phương tiện), điều tra theo dõi mọi hoạt động của người định giết, chuẩn bị những điều kiện, thủ đoạn  để che giấu tội phạm…

+) Trước khi có hành vi nguy hiểm đến tính mạng người khác, người phạm tội  chỉ nhận thức được hậu quả chết người có thể xảy ra chứ không chắc chắn nhất định xảy ra vì người phạm tội  chưa tin vào hành vi của mình nhất định sẽ gây ra hậu quả chết người. Bản thân người phạm tội  cũng rất mong muốn cho hậu quả xảy ra, nhưng họ lại không tin một cách chắc chắn rằng hậu quả ắt xảy ra.

+) Trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm đến tính mạng của người khác, người phạm tội  cũng chỉ thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra tuy không mong muốn hậu quả chết người xảy ra, nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra, hậu quả xảy ra người phạm tội cũng chấp nhận.

– Trong trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, người thực hiện hành vi có lỗi vô ý đối với hậu quả chết người xảy ra. Nghĩa là họ thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra, có thể ngăn ngừa được hoặc họ không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Đây là trường hợp người phạm tội chỉ cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của nạn nhân, nhưng chẳng may nạn nhân bị chết, cái chết của nạn nhân là ngoài ý muốn của người phạm tội. Hậu quả chết người xảy ra là vì những thương tích do hành vi của người phạm tội gây ra.

Mục đích của người phạm tội:

Mục đích là dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của người phạm tội, là kết quả mà người phạm tội mong muốn có được khi thực hiện hành vi của mình.

– Trong trường hợp người thực hiện hành vi có mục đích rõ ràng là tước đoạt tính mạng con người thì họ phạm tội giết người.

– Trong trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, người thực hiện hành vi không có mục đích tước đoạt tính mạng của người khác mà chỉ có mục đích làm người khác bị thương, bị tổn hại về sức khỏe.

2. Điểm khác nhau giữa tội giết người và tội cố ý gây thương tích:

Theo quy định tại Bộ luật hình sự 2015 thì tội giết người và cố ý gây thương tích có những điểm khác nhau thể hiện ở các mặt như sau:

Về mặt khách quan: Tội giết người theo quy định tại Điều 123 là hành vi cố ý tước đoạt mạng sống của người khác, tội cố ý gây thương tích Điều 134 là hành vi cố ý gây thương tích hoặc làm tổn hại sức khỏe của người khác.

Về mặt khách thể: Tội giết người xâm phạm đến tính mạng con người, còn tội cố ý gây thương tích xâm phạm đến sức khỏe của con người.

Về mặt chủ quan: Người phạm tội giết người có lỗi cố ý cả về hành vi hậu quả, nghĩa là người người phạm tội biết hành vi đó có thể dẫn đến cái chết cho nạn nhân nhưng vẫn cố tình thực hiện để mong muốn hậu quả chết người xảy ra hoặc bỏ mặc cho hậu quả chết người xảy ra còn người phạm tội cố ý gây thương tích Điều 134 dẫn đến hậu quả chết người có lỗi cố ý đối với hành vi gây thương tích nhưng vô ý đối với hậu quả chết người, nghĩa là người phạm tội không mong muốn cái chết xảy ra đối với nạn nhân.

Về mặt hậu quả: Tội giết người không yêu cầu phải có hậu quả chết người xảy ra, chỉ cần thực hiện hành vi giết người thì tội phạm đã hoàn thành. Tại tội cố ý gây thương tích theo Điều 134 là dấu hiệu định khung tăng nặng nên nó bắt buộc phải có.

Tuy nhiên trong thực tiễn xét xử, việc xác định ý thức chủ quan của bị cáo là rất khó khăn trong trường hợp không xác định ý thức chủ quan của bị cáo là giết người. Những trường hợp này thì hậu quả đến đâu, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đến đấy.

3. Truy cứu trách nhiệm hình sự tội giết người hay tội cố ý gây thương tích:

Tội giết người và Tội cố ý gây thương tích đều có một trong những trường hợp là dẫn đến hậu quả chết người, vì vậy trong trường hợp này, cần xác định các yếu tố về mục đích, lỗi và động cơ của người phạm tội để xác định đây là tội giết người hay tội cố ý gây thương tích theo quy định.

Thứ nhất, về lỗi: thái độ tâm lý bên trong của người phạm đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra.

+ Đối với Tội giết người : người thực hiện hành vi giết người luôn luôn có lỗi cố ý, là việc họ nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, gây nên hậu quả chết người và mong muốn nó xảy ra hoặc không mong muốn nhưng vẫn để mặc hậu quả xảy ra

+ Đối với Tội cố ý gây thương tích, dẫn đến hậu quả chết người: trong trường hợp này, người phạm tội có lỗi cố ý với hành vi gây thương tích nhưng lại có lỗi vô ý với hậu quả gây chết người nghĩa là là người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể xảy ra chết người nhưng chắc chắn cho rằng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được hoặc người phạm tội không thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước. Vì vậy, người phạm tội chỉ cố ý thực hiện hành vi gây thương tích với mục đích gây thương tích, tổn hại sức khỏe nhưng vô ý dẫn đến chết người, hậu quả chết người do hành vi gây thương tích chứ không phải hành vi tước đoạt mạng sống của nạn nhân.

Thứ hai, Mục đích của người phạm tội: Mục đích là dấu hiệu quan trong để phân biệt giữa Tội cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người hoặc Tội giết người, tuy nhiên, đây cũng là dấu hiệu khó phân biệt.

– Đối với Tội giết người: Người phạm tội có mục đích rõ ràng là tước đoạt tính mạng

– Đối với tội cố ý gây thương tích, dẫn đến hậu quả chết người: Người phạm tội chỉ có mục đích gây thương tích, tổn hại đến sức khỏe nạn nhân

4. Xác định là tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người hay tội giết người:

Trong trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, người thực hiện hành vi có lỗi vô ý đối với hậu quả chết người xảy ra. Nghĩa là họ thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra, có thể ngăn ngừa được hoặc họ không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Đây là trường hợp người phạm tội chỉ cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của nạn nhân, nhưng chẳng may nạn nhân bị chết, cái chết của nạn nhân là ngoài ý muốn của người phạm tội. Hậu quả chết người xảy ra là vì những thương tích do hành vi của người phạm tội gây ra.

Với tội giết người, người thực hiện hành vi có lỗi cố ý đối với hậu quả chết người. Nghĩa là họ nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc hậu quả đó xảy ra. Trong trường hợp người thực hiện hành vi có mục đích rõ ràng là tước đoạt tính mạng con người thì họ phạm tội giết người.

5. Cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người có được hưởng án treo?

Căn cứ Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 quy định Tội cố ý gây thương tích với hậu quả gây chết người; khung hình phạt tù từ 05 năm đến 15 năm.

Việc bên bị hại có đơn bãi nại, các bên tự thỏa thuận việc bồi thường thiệt hại thì đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, không phải bị cáo được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự.

Về việc hưởng án treo: Theo Điều 65 Bộ luật hình sự 2015, một trong những điều kiện để được hưởng án treo là bị phạt tù không quá 03 năm.

Trường hợp bị cáo cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người, khung hình phạt tù từ 05 năm đến 15 năm do đó không đủ điều kiện để cho hưởng án treo.

Theo dõi, cập nhật thông tin pháp luật, tìm hiểu thêm về dịch vụ của chúng tôi:
1. Tiktok: Nhấn vào đây
2. Youtobe: Nhấn vào đây
3. Facebook: Nhấn vào đây
4. Zalo: 0869.642.643

Xem thêm dịch vụ luật sư tranh tụng của chúng tôi (Nhấn vào đây)

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *